Theo Chinhphu.vn
Phát triển nuôi trồng thủy sản có hiệu quả, ổn định và bền vững trên cơ sở phát huy lợi thế ở mỗi địa phương, góp phần phát triển kinh tế- xã hội, xóa đói, giảm nghèo, tạo thêm ngành nghề mới, tăng thu nhập cho bà con nông dân, là mục tiêu lâu dài mà các tỉnh miền Trung đang hướng đến.
Ưu tiên các mô hình nuôi trồng sinh thái
Rõ ràng những khó khăn và thách thức mà các tỉnh miền Trung đối diện là không hề nhỏ. Để thực hiện nuôi bền vững, theo hướng công nghiệp cần phải có một quá trình. Theo ông Lê Trường Lưu, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, mục tiêu của ngành nuôi trồng thủy sản tỉnh đến năm 2015 là đạt khoảng 20 nghìn tấn, tăng thêm 7.000 tấn so với hiện nay, trong đó tỉnh sẽ ưu tiên nuôi các loại thủy sản nước lợ như tôm sú đạt 2.700 tấn; các loại cua, cá nước lợ, nhuyễn thể...
Tỉnh sẽ ổn định 1.091 ha nuôi chuyên tôm sú bán thâm canh vùng cao triều ven đầm phá, giảm diện tích nuôi xen ghép, phát triển đạt 2.360 ha diện tích nuôi thủy sản nước ngọt.
Về nguồn giống, tỉnh quy hoạch 30 ha tại vùng cát ven biển huyện Phong Điền để xây dựng nhóm trại sản xuất và dịch vụ cung ứng giống cho vùng nuôi trên cát; củng cố hệ thống trại sản xuất và dịch vụ giống tôm sú tại huyện Phú Vang và huyện Phú Lộc; phát triển mạng lưới ươm giống tại các xã nuôi trồng thủy sản trọng điểm; giải tỏa 300 ha ao nuôi hạ triều vùng đầm phá và chuyển 308 ha nuôi tôm chắn sáo sang nuôi sinh thái kết hợp phục vụ du lịch.
Các đề án hỗ trợ cũng được xây dựng như đào tạo và nâng cao năng lực cho lực lượng làm công tác cộng đồng nghề cá; đào tạo và nâng cao nghiệp vụ chuyên ngành thú y thủy sản cho lực lượng thú y viên; xây dựng hệ thống cảnh báo quan trắc môi trường và phòng chống dịch bệnh thủy sản; hỗ trợ người dân khi thực hiện giải tỏa và sắp xếp vùng nuôi chắn sáo, nuôi ao hạ triều và cao triều vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai.
Theo bà Võ Thị Tuyết Hồng, Chi cục trưởng Chi cục nuôi trồng thủy sản tỉnh, một hình thức nuôi hứa hẹn hiệu quả, vừa bảo vệ môi trường, lại phát huy tiềm năng của vùng đầm phá là nuôi thủy sản kết hợp trồng rừng ngập mặn. Mô hình này đang được thử nghiệm tại xã Hương Phong, huyện Hương Trà. Bên cạnh đó, đề án Làng nghề nuôi trai tại xã Lộc Bình, Vinh Hiền, huyện Phú Lộc do Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Biển Ngọc làm chủ đầu tư đã được triển khai.
Ông Nguyên Xuân Cương, Giám đốc Công ty Biển Ngọc cho biết, muc tiêu của dự án là đầu tư khu làng nghề nuôi cấy, chế tác, trình diễn, trưng bày ngọc trai và kết hợp với du lịch sinh thái nghỉ dưỡng. Dự án này giải quyết việc làm thường xuyên cho 150 lao động địa phương, đồng thời mở ra thêm ngành nghề mới cho ngư dân. Bà Võ Thị Tuyết Hồng đánh giá, đề án làng nghề nuôi trai là một hướng đi mới, tạo ra sản phẩm hàng hóa có chất lượng, hấp dẫn được tỉnh kỳ vọng. Những mô hình nuôi này vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế, vừa bảo vệ môi trường sinh thái ở vùng đầm phá Tam Giang- Cầu Hai.
Còn tại Đà Nẵng, theo chỉ tiêu quy hoạch ngành thủy sản đến năm 2010, phát triển 120 ha nuôi tôm sú và thẻ chân trắng, sản lượng 700 tấn/năm; phát triển 850 ha các loại thủy sản nước ngọt, sản lượng 1.500 tấn/năm. Ông Lê Công Hồ, Phó Giám đốc Sở nông nghiệp Đà Nẵng phân ưu, quan điểm của Sở là còn ao còn nuôi các sản phẩm thủy sản sạch, phát triển đa dạng hóa sản phẩm, tuy nhiên, với tốc độ đô thị hóa hiện nay thì chỉ tiêu trên khó đạt được.
Phát triển vùng chuyên canh tôm bền vững
Trong khi Thừa Thiên Huế ưu tiên phát triển nuôi trồng sinh thái thì Quảng Nam xác định đối tượng chủ lực là con tôm. Phát triển nuôi tôm theo hướng cải thiện môi trường, hạn chế dịch bệnh, nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Mục tiêu của đề án là đến cuối 2011 sẽ hoàn thành xây dựng 10 vùng nuôi an toàn dịch bệnh, quy mô 30ha/vùng, phấn đấu đến năm 2015 trên 50% diện tích nuôi thủy sản tập trung sẽ áp dụng các quy chuẩn quốc gia về vệ sinh an toàn thực phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu.
Bên cạnh đó tỉnh cũng khuyến khích người dân đầu tư nuôi cá tra, đa dạng hóa đối tượng nuôi nước ngọt trên địa bàn tỉnh, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với các mô hình nuôi cá theo hướng công nghiệp. Phát triển các loại cá nuôi truyền thống ở các vùng trung du, đồng bằng để cung ứng thực phẩm tại chỗ cho người nuôi trong vùng. Đồng thời, xây dựng dự án quy hoạch vùng nuôi tập trung gắn liền sử dụng kênh mương thủy lợi.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam Ngô Tấn cho biết, để thực hiện các mục tiêu trên, bên cạnh việc áp dụng tối đa những thành tựu khoa học kỹ thuật, Sở sẽ phối hợp với địa phương, Cơ quan Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản trung bộ thực hiện tốt Chương trình kiểm soát dư lượng, nhằm truy xuất nguồn gốc thủy sản bị nhiễm dư lượng vượt mức cho phép, nâng cao chất lượng hàng thủy sản cho tiêu dùng nội địa và phục vụ xuất khẩu. Đồng thời, kiểm tra điều kiện sản xuất giống đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh tôm giống, các cơ sở sản xuất, kinh doanh thức ăn trong nuôi trồng thủy sản.
Bên cạnh việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ngân sách của Trung ương, của tỉnh để đào tạo, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, xây dựng mô hình, Sở cũng khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất để nâng cao năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế, phục vụ tối ưu cho thị trường nội địa và xuất khẩu.
Bà Phạm Thị Hoàng Tâm, Chi cục phó Chi cục nuôi trồng thủy sản Quảng Nam cho rằng, muốn nuôi thủy sản thành công, lợi nhuận lớn, cần phải đầu tư, nhất là đầu tư về cơ sở hạ tầng, nâng cấp ao hồ để thích hợp với những biến động lớn từ thời tiết. Do vậy, bên cạnh nội lực từ người nuôi thì cần có sở chế chính sách của nhà nước như cơ chế về vay vốn, hỗ trợ đầu tư phát triển nôi trồng. Bên cạnh đó, cần kêu gọi các nhà đầu tư vào sản xuất giống thủy sản có uy tín, chất lượng, quy mô để cung ứng con giống sạch, chất lượng tốt cho người nuôi.
Không có lợi thế bằng Vịnh Bắc Bộ hay Đồng bằng Sông Cửu Long, song ngành thủy sản miền Trung có quyền tự hào về những kết quả đã đạt được. Kết quả đó đã nói lên sự nỗ lực, tâm huyết của những người nuôi trồng thủy sản vượt qua thời tiết khắc nghiệt, để làm giàu ngay trên mảnh đất của quê hương. Chặng đường phía trước là một quá trình với nhiều khó khăn và thách thức, nhưng với những việc làm thiết thực của cộng đồng sẽ đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả của nghề nuôi trồng thủy sản ở dải đất ven biển.
Khép lại những bài viết này, chúng tôi có niềm tin mạnh mẽ là những người nông dân, đặc biệt là ngư dân ở các vùng biển sẽ tiếp tục đồng lòng hiệp sức để đưa nghề nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững, tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo, xây dựng quê hương giàu đẹp hơn./.
Thế Lực